THPT Tạ Uyên Mãi Mãi Tự Hào Mang Tên Người Anh Hùng Quê Hương

Thứ Sáu, 10 tháng 3, 2017

Nghề Giáo Nghề Cao Qúy Trong Các Nghề Cao Qúy

Ngày Nhà giáo Việt Nam được tổ chức vào ngày 20/11 hàng năm không chỉ là dịp để Ngành Giáo dục tôn vinh những người hoạt động trong ngành, học trò thể hiện lòng thành kính “tôn sư trọng đạo” mà còn là dịp để xã hội tôn kính, tri ân những người đã, đang gắn bó với nghề dạy học - nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý. * Tôn vinh, tri ân người thầy Từ xưa đến nay, người làm nghề giáo thường được nhân dân kính trọng, tôn quý, vị nể. Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng có thời gian dạy ở trường Dục Thanh, Phan Thiết. Nghề giáo là một nghề đặc biệt, bởi, đối tượng lao động của người thầy chính là nhân cách, tâm hồn và thể chất con người; công cụ lao động của nghề dạy học, chủ yếu là bằng bản thân, là toàn bộ nhân cách của người thầy; phương pháp lao động của người thầy là phương pháp nêu gương, cảm hoá đối tượng bằng tư tưởng, tình cảm của mình… để tạo ra những “sản phẩm” đặc biệt - là những con người có ý thức, biết vận dụng tri thức, kỹ năng và bắt nhịp với thời đại, biết độc lập, tự chủ và sáng tạo. Lịch sử dân tộc ta đã lưu danh những bậc thầy “đức cao vọng trọng” - tấm gương sáng ngời về cốt cách thanh cao, không bị cám dỗ bởi tiền tài và danh vọng. Tên tuổi những nhà giáo nổi tiếng ấy tuy không được ghi danh trong bảng vàng bia đá nhưng đã làm rạng danh nền giáo dục nước nhà, khắc sâu trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam và được lưu truyền mãi mãi. Đó là bà Ngô Chi Lan, nữ nhà giáo đầu tiên vào thế kỷ XV được vua Lê Thánh Tông mời vào cung dạy học; là thầy Đỗ Năng Tế là thầy giáo của Hai Bà Trưng - những phụ nữ đầu tiên của dân tộc dựng cờ khởi nghĩa, chống lại ách đô hộ của phong kiến phương Bắc; là các thầy Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Sinh Sắc… những tấm gương tiêu biểu về nhân cách ngời sáng của người thầy mẫu mực, tài giỏi, ngay thẳng, cương trực, không màng danh lợi. Lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng đã từng dạy học ở trường Dục Thanh - Phan Thiết. Qua các bài giảng, Người đã khai sáng tâm hồn học trò về đạo lý, lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc. Các thế hệ học trò của thầy không những cùng thầy sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tiếp tục con đường người thầy đã chọn, những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Tổng Bí thư Trường Chinh… trước khi trở thành nhà lãnh đạo tài ba của đất nước đã từng làm nghề “ươm mầm xanh” ở một số trường học. Không chỉ cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân viết nên những chiến công chói lọi ở thế kỷ XX mà còn từng bước đưa nền giáo dục nước nhà sánh vai cùng bạn bè năm châu. Nhà giáo Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Ngọc Ký… và biết bao tấm gương người thầy đã trở thành thần tượng, làm rung động triệu triệu trái tim, khối óc các thế hệ học sinh, sinh viên trong và ngoài nước. Tên tuổi nhiều nhà giáo đã được dùng đặt tên cho các trường học, đường phố, công trình, giải thưởng của các cuộc thi và trở thành biểu tượng sáng ngời về trí tuệ, nhân cách người thầy. Trong những cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, lớp lớp thầy giáo trẻ theo tiếng gọi của lý tưởng cách mạng cao đẹp đã ra trận, cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cùng các thế hệ cha anh viết nên bản hùng ca bất tử, khắc ghi tên mình vào trang sử vẻ vang của dân tộc. Ở lại hậu phương, các thế hệ người thầy tiếp tục truyền lửa đến học trò, để rồi từ bục giảng, chính các thầy cô lại khơi dậy lòng yêu nước, chí căm thù giặc, nuôi dưỡng lý tưởng sống cao đẹp cho nhiều thế hệ học sinh, sinh viên. Đất nước hòa bình, thống nhất, vượt lên bao vất vả, lo toan của cuộc sống thường nhật, hình ảnh người thầy vẫn hiện lên sáng ngời, kiên trì thắp lửa, truyền đạt tri thức, sưởi ấm tâm hồn thế hệ tương lai với nghĩa cử cao đẹp “tất cả vì học sinh thân yêu”. Nhiều thầy, cô giáo đã không quản ngại nắng mưa, tình nguyện “cõng chữ lên non”, mang ánh sáng của con chữ đến với học sinh và kiến thức xây dựng kinh tế đến đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo giúp họ vượt lên rào cản hủ tục, thoát khỏi cái nghèo, cái đói. Khi cả nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta coi giáo dục là “Quốc sách hàng đầu” vì vậy, vị trí, vai trò, trọng trách của người thầy càng hết sức quan trọng, quyết định trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực của đất nước cũng như hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Sứ mệnh của người thầy hôm nay vừa đảm đương trọng trách đào tạo ra nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững vừa góp phần không nhỏ vào quá trình hình thành nhân cách con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có tinh thần tự hào với truyền thống văn hoá, lịch sử ngàn năm của dân tộc. * Từ ngày Quốc tế Hiến chương các nhà giáo đến ngày Nhà giáo Việt Nam Tháng 7/1946, một tổ chức quốc tế các nhà giáo tiến bộ được thành lập ở Paris (thủ đô nước Pháp), lấy tên là FISE (Fédération Internationale Syndicale de Lenseignant - Liên đoàn quốc tế các công đoàn giáo dục). Năm 1949, tại hội nghị Vacsava (thủ đô Ba Lan) tổ chức FISE xây dựng một bản "Hiến chương các nhà giáo" gồm 15 chương với nội dung chủ yếu là đấu tranh chống nền giáo dục tư sản, phong kiến, xây dựng nền giáo dục tiến bộ, bảo vệ những quyền lợi vật chất và tinh thần chính đáng của nghề dạy học và nhà giáo, đề cao trách nhiệm và vị trí của nghề dạy học và nhà giáo. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, công đoàn giáo dục Việt Nam đã quan hệ với FISE để tranh thủ các diễn đàn quốc tế tố cáo âm mưu tội ác của bọn đế quốc xâm lược đối với nhân dân ta cũng như đối với giáo viên và học sinh, đồng thời giới thiệu những thành tích của nền giáo dục cách mạng, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của giáo giới trên toàn thế giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Ngày 22/7/1951, công đoàn giáo dục Việt Nam được thành lập. Sau một thời gian ngắn, năm 1953, công đoàn giáo dục Việt Nam đã được kết nạp làm thành viên của FISE và được mời dự hội nghị của FISE ở Vienne (thủ đô Áo). Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Khánh Toàn làm trưởng đoàn. Từ 26 đến 30/8/1957, hội nghị FISE đã diễn ra tại thủ đô Vacsava với sự tham dự của 57 nước, trong đó có Việt Nam. Hội nghị đã thông qua bản Hiến chương các nhà giáo và quyết định lấy ngày 20/11 hàng năm là "Ngày quốc tế hiến chương các nhà giáo". Ngày 20/11/1958, Ngày quốc tế Hiến chương các nhà giáo được tổ chức lần đầu tiên ở miền Bắc nước ta. Những năm sau đó, ngày này được tổ chức ở các vùng giải phóng ở miền Nam. Vào dịp kỷ niệm 20/11 hàng năm, cơ quan tiểu ban giáo dục thường xuất bản, phát hành một số tập san đặc biệt để cổ vũ tinh thần đấu tranh của giáo giới trong vùng tạm chiếm, động viên tinh thần chịu đựng gian khổ của anh chị em giáo viên kháng chiến. Sau ngày đất nước thống nhất, các nhà giáo Việt Nam đoàn kết nhất trí xây dựng nền giáo dục theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 20/11 đã trở thành ngày truyền thống của các nhà giáo Việt Nam. Ngày 28/9/1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Quyết định số 167-HĐBT, lấy ngày 20/11 làm ngày "Nhà giáo Việt Nam". Mỗi dịp kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam ngày 20/11, trước sự quan tâm của toàn xã hội, niềm vui, hạnh phúc lại trào dâng, rạng ngời trên mỗi gương mặt thầy cô - điểm tựa tinh thần vững chắc, tiếp thêm sức mạnh, lòng yêu nghề và khát khao cống hiến của các thầy cô đối với sự nghiệp giáo dục.

Câu Chuyện Về Nghề Nhà Giáo

Câu Chuyện Cảm động Về Nghề Giáo Tôi là một học sinh… không dạy nổi. Tất cả các thầy cô giáo đã dạy tôi đều nhận xét như vậy với ba mẹ tôi. Chưa có lớp học nào chịu thu nhận tôi quá một tháng. Mẹ tôi khóc. Bố thở dài: thằng này vậy là coi như xong... Chuyển qua trường mới. Nhìn sơ qua học bạ, thầy hiệu trưởng đã muốn đuổi tôi đi nhưng nể tiếng ngoại tôi là giám đốc ty giáo dục cũ, thầy đành nhận. “Tôi sẽ xếp em vào lớp thầy Tiến”. Thầy dạy lớp tập hợp toàn học sinh cá biệt của trường. Ngày đầu tiên vào lớp, bố đích thân dẫn tôi đến “trao tận tay thầy”. Tôi lén quan sát “đối thủ” của mình. Thầy gầy gò, mang cặp kính gọng đen nặng trịch, mắt nhướng lên nhìn sát mặt tôi “A, con trai, để xem thầy làm được gì cho con không, khá đây”. Thầy xếp tôi ngồi với một con nhóc tóc tém mặt mũi lanh lẹ. Nó khẽ hích vào vai tôi giành chỗ ngồi rộng hơn. Tôi đành chịu vậy, chưa bao giờ tôi đánh con gái cả. Thầy thắng tôi 1-0 rồi. “Thầy biết tại sao em dây mực vào áo bạn”, thầy nói với tôi khi Tú còm mếu máo mách chuyện. Sao ông ấy lại biết nhỉ? Mình đã khai gì đâu. Trước đây, mỗi lần tôi dây mực vào hầu hết các trò trong lớp các cô đều hỏi tại sao, các thầy thì ngay lập tức thi hành hình phạt. Bao giờ tôi cũng bịa ra một chuyện mà mình là nạn nhân. Tôi mặc sức bịa dù chẳng ai tin. Tôi cũng chẳng quan tâm hình phạt là gì và có ai tin hay không. Vậy mà hôm nay thầy bảo là thầy biết. Ngạc nhiên hơn là thầy chẳng phạt tôi gì cả. Thầy chỉ nhỏ nhẹ bảo tôi: “Lần sau em nhớ cẩn thận hơn”. Mấy hôm sau nữa tôi lại vẩy mực lên áo 3 nạn nhân nữa. Thầy vẫn bảo biết rồi và không phạt. Tôi đâm chán trò vẩy mực cũ rích chẳng ấn tượng này. Tuyen tap truyen ngan hay va xuc dong ve thay co ngay 20/11Câu chuyện cảm động về thầy Thời ấy chúng tôi đứa nào cũng mang kè kè tấm bảng và mấy mẩu phấn. Ra chơi, tôi gom hết phấn ném vào lũ con gái nhảy dây trước sân. Hết buổi học tôi xô lũ bạn ngã dúi dụi, chạy ngay ra cổng trước. Đứa nào xấu số đi qua chỗ tôi đều bị tịch thu hết phấn thừa. Hôm sau thầy gọi tôi lên phòng họp. Thầy mở tủ ra, ấn vào tay tôi hộp phấn to đùng mà không nói gì. Tôi xấu hổ quay mặt đi tránh ánh nhìn của thầy. Tôi nhớ mình đã lì mặt ra như thế nào khi cô giáo cũ mắng tôi, hôm sau tôi càng lấy phấn nhiều hơn nữa. Vậy mà khi cầm hộp phấn thầy cho trong tay, tôi thấy xấu hổ quá chừng. Ôm hộp phấn lên trả cho thầy, tôi lí nhí: “Lần sau em không làm thế nữa”. Thầy mỉm cười bảo: “Em ngoan lắm!”. Lần đầu tiên tôi được người lớn khen ngoan. Tôi nằm nghĩ cả đêm. Từ nay mình sẽ ngoan mãi, để không ai mắng mình nữa. Nhưng ngoan chưa chắc đã giỏi. Quả thật tôi đúng với trường hợp ấy. Tôi có thể bắn bi, chơi bắn bàng cả ngày không chán. Nhưng hễ cứ ngồi vào bàn học là tôi chán ngay. Ba mẹ có đánh, có mắng thế nào cũng chịu. Môn toán còn đỡ, có tí gì dính đến văn chương là tôi mù tịt. Vào học được một tháng, tôi thấy thầy đạp xe qua nhà. Chiếc xe của thầy chẳng biết trước đây sơn màu gì, giờ chỉ còn trơ ra màu gỉ sét xấu xí. Thầy vào nhà, ba mẹ tôi đều đi vắng cả. Ngó qua căn nhà tồi tàn của tôi, thầy hẹn ngày mai quay lại. Tôi lo hết cả một ngày. Chẳng biết mình làm gì sai. Hôm sau thầy đến. Thầy đứng luôn ngoài sân “bàn chuyện” với ba tôi. Thầy bảo cần một người đọc và ghi chép lại tài liệu giúp thầy. Nhất thiết phải là chữ trẻ con. Thầy đang nghiên cứu gì đó. Ba mẹ tôi mừng rỡ vì không phải khản cổ quản tôi nửa ngày không đến trường. Tôi vùng vằng mãi mới chịu đến nhà thầy. Thầy ở một mình. Ngoài giá sách ra cũng chẳng có gì đáng giá. Mỗi ngày một buổi, tôi gò lưng ghi chép lại những gì đọc được. Thầy bắt tôi viết những dòng cảm nhận ngắn sau mỗi tác phẩm. Sau đó tôi đọc to lên và thầy chỉnh sửa những điều tôi nghĩ lệch lạc, thêm vào một số ý. Thỉnh thoảng thầy bảo tôi dừng ghi, chuyển qua tính toán giúp thầy vài việc. Tôi về nhà cố luyện cách tính toán sao cho nhanh nhất để không bị mất mặt trước thầy. Dần dần, kiến thức “tự nhiên” đến với tôi lúc nào không biết. Lần đầu tiên cầm tờ giấy khen của tôi trên tay, mẹ tôi đã khóc, khóc to hơn lúc tôi bị đuổi học. Ba tôi thì chẳng nói gì, chỉ gật gù cười. Năm học qua đi nhanh chóng. Tôi nghỉ hè vẫn không quên đọc và ghi chép lại một chồng sách cao ngất ngưởng thầy giao trước khi nghỉ học. Ngày khai trường, tôi tìm mãi vẫn không thấy thầy đâu. Linh tính điều không hay, tôi bỏ cả buổi lễ chạy đến nhà thầy. Căn nhà trống hoác. Bác hàng xóm nghe chó sủa ran chạy sang xem xét. “Cậu là Phong hử?”. “Dạ”. “Thầy Tiến gửi cái này cho cậu. Thầy ấy bảo chuyển vào Nam ở với con trai”. Tôi vội vàng mở ra, bức thư rất ngắn. “Thầy mong em cố gắng học thật tốt. Em luôn là học trò ngoan của thầy”. Mười năm qua đi, tôi mới hiểu hết những gì thầy muốn nhắn. Có những điều không hay nhưng không thể thay đổi bằng sự giận dữ. Tình yêu thương và sự sáng tạo mới là thứ giúp bạn thay đổi mình, thay đổi mọi người. Cảm ơn thầy với phương pháp dạy đặc biệt đã giúp em trưởng thành. Cám ơn Thầy của em! Người thầy và những tờ tiền cũ 900.000đồng, nó cứ mân mê những đồng 10.000 đã cũ mà thèm một góc không có ai để khóc. Cuối cùng nó cũng đậu đại học. Người đầu tiên nó muốn thông báo tin quan trọng ấy không phải là ba hay mẹ nó mà là người thầy kính yêu của nó… Nhà nó nghèo, lại đông anh em, quê nó cũng nghèo nên từ lâu chẳng có mấy ai dám nghĩ đến chuyện cho con vào đại học. Ba mẹ nó cũng vậy, phần vì quá nghèo, phần là vì nghĩ đến điều kiện của con mình “làm sao mà chọi với người ta”!… Thầy là người duy nhất ủng hộ nó, cho nó niềm tin rằng “mình có thể”. nguoi-thay-va-nhung-to-tien-cu Người thầy và những tờ tiền cũ Vui mừng chẳng được bao lâu, bao nhiêu lo lắng tràn về vây lấy nó… Năm năm trời, hàng trăm thứ tiền như bầy ong vo ve trong đầu nó. Rồi thầy đến mang cho nó một lô sách, vở mà nó đoán là những bài học “nhân-lễ-nghĩa” của thầy, dúi vào tay nó một gói nhỏ mà thầy bảo là “bí kíp” rồi dặn chỉ lúc nào khó khăn nhất mới được mở ra. Nó đã không “cảnh giác” thừa. Gói “bí kíp” mà lúc nhận từ tay thầy nó đã ngờ ngợ là một xấp những tờ tiền 10.000đ bọc trong hai lớp nilon cũ kỹ, những tờ tiền được vuốt phẳng phiu phần nhiều đã nhàu nát mà nó tin rằng thầy đã để dành từ lâu lắm! 900.000đồng, nó cứ mân mê những đồng 10.000 đã cũ mà thèm một góc không có ai để khóc. Đã hai năm kể từ cái ngày thầy lặn lội lên Sài Gòn thăm nó, dúi vào tay nó những đồng 10.000 nhọc nhằn rồi lại vội vã trở về. Sau đó thầy chuyển công tác. Hai năm, thỉnh thoảng nó vẫn nhận được những đồng 10.000 của thầy (lạ thay, lại vào những lúc tưởng chừng như nó bế tắc nhất!)… Hai năm, nó vẫn chưa một lần về thăm thầy. Trưa, mới đi học về, mẹ điện lên báo: “Thầy H. mất rồi!”. Nó chỉ lắp bắp hỏi được ba chữ: “Sao thầy mất?”, rồi sụp xuống khi mẹ cũng nghèn nghẹn ở đầu dây bên kia: “Thầy bệnh lâu rồi mà không ai biết. Ngày đưa thầy vào viện, bác sĩ chụp hình mới biết thầy đã hư hết lục phủ ngũ tạng rồi, chưa ai kịp đi thăm thì thầy đã…”. Nó bỏ hết mọi sự leo lên xe đò. Trong cái nóng ban trưa hầm hập với cơn say xe mệt mỏi, nó thấy thầy hiền hậu đến bên nó, dúi vào đôi tay nóng hổi của nó những tờ 10.000 đồng lấp lánh… Đến bây giờ nó mới để ý thấy thầy đã xanh xao lắm, bàn tay tài hoa khéo léo ngày xưa đã gân guốc lên nhiều lắm… Nó chợt tỉnh, nước mắt lại lăn dài trên má, trái tim nó gào lên nức nở: “Thầy ơi… sao không đợi con về…!?”. Vì nó cứ đinh ninh: nếu đổi những đồng 10.000 kia thành thuốc, thầy sẽ sống cho đến khi nó kịp trở về Bài học làm người từ cô giáo dạy Sử Sau ba năm tôi mới có dịp trở lại trường cũ. Mọi thứ không thay đổi nhiều, sân trường vẫn rợp bóng cây, và những chiếc ghế đá vẫn ở đó, trầm mặc và nhẫn nhịn. Tiếng cô giảng đều đều trên lớp và ánh mắt ngây thơ của đám trẻ học trò khiến tôi nhớ lại những kỷ niệm thời cắp sách. Tiếng trống trường đã điểm, giờ ra chơi đến. Tôi lại bóng dáng của cô từ trong lớp, vẫn dáng hình ngày xưa khi gieo mầm con chữ cho chúng tôi. Cô vẫn tận tụy đến lớp, vẫn chèo lái những con thuyền mơ ước của những cậu học trò nhỏ chúng tôi đến bến bờ hạnh phúc. Giọng cô nhẹ nhàng phân tích cho học sinh chúng tôi những sự kiện lịch sử đáng nhớ, những chiến thắng vang dội của quân ta khắp các chiến trường. Chốc chốc cô ngừng giảng và nhìn đám học trò đang tròn mắt suy ngẫm. Chính cô cũng không thể nhận ra được những thế hệ học trò đó còn nhớ mãi công ơn của cô tự ngày nào. Cô về trường tôi từ khi trường chỉ có mái lá đơn sơ. Ngày mưa cũng như ngày nắng cô vẫn đạp chiếc xe Thống Nhất đã bạc màu đến lớp. Có lần những hôm trời mưa bão rất to mà cô vẫn cố đạp hơn chục cây số đến lớp vì sợ học sinh phải chờ. Có khi nước ngập quá bánh xe mà cô vẫn bước tiếp, đến lớp thì cả thầy cả trò đều ướt hết. Phòng học dột nát không thể theo học. Những khi mưa gió như vậy cô lại nhớ về vùng quê Bình Lục, nơi người ta vẫn “cưỡi trâu đi họp huyện” cô lại thấy xót thương. Cô thường kể cho chúng tôi nghe rất nhiều về miền quê và gia đình cô. Miền quê chiêm trũng, ngập quanh năm những có nghị lực phi thường. Tuyen tap truyen ngan hay va xuc dong ve thay co ngay 20/11 Bài học làm người từ cô giáo dạy sử Giờ đây khi mọi thứ đã được thay mới, cô vẫn ngày ngày đến lớp. Là một giáo viên dạy sử nên tính cô rất nghiêm khắc. Cô luôn dạy chúng tôi phải biết tự phấn đấu vươn lên. Cô thường bảo, lịch sử là cái gốc rễ của một quốc gia dân tộc, khi các em hiểu sử cũng hiểu truyền thống quý báu của ông cha ta, biết mà học hỏi, biết mà phát huy những truyền thống quý báu đó. Theo lời dạy đó, mỗi thế hệ học sinh chúng tôi đều cố gắng trở thành một học sinh ngoan trong mắt cô. Đã 27 năm trôi qua với bao thế hệ học trò đến và đi khỏi ngôi trường này, nhưng hình bóng cô mỗi ngày lên lớp thì vẫn vậy. Những học trò đầu tiên của cô nay đã đầu hai thứ tóc cũng không sao quên được những lời dạy, những kiến thức mà cô đã truyền đạt. Cô luôn dạy cách làm sao để hiểu và nhớ về một sự kiện lịch sử lâu nhất. “Chỉ khi các em hiểu rõ nguyên nhân tại sao và giải thích được những sự kiện, những mối ràng buộc đó thì em mới có thể làm tốt một bài lịch sử”. Tôi còn nhớ kỷ niệm về cô khi còn đang học phổ thông. Là một học sinh chuyên văn nên tôi rất thích những môn xã hội, đặc biệt là tìm hiểu những kiến thức lịch sử. Khi còn học ở trung học cơ sở tôi đã được nghe những thông tin về cô với phương pháp dạy hay, là một giáo viên giỏi ở trường. Và khi theo học cô tôi thực sự bị thuyết phục bởi cách giảng dạy ân cần và chu đáo. Trong những giờ giảng, cô nhấn mạnh đến những sự kiện then chốt nhất, có tính quyết định đến giai đoạn lịch sử đang nghiên cứu. Cô thường dặn chúng tôi: “muốn học được lịch sử thì cần phải biết hệ thống kiến thức, tóm gọn vấn đề lại rồi triển khai thật nhỏ ra. Như vậy vừa nhớ lâu lại không bị mất ý”. Theo lời khuyên của cô, mỗi chúng tôi đều nhớ rất rõ những vấn đề lịch sử và không hề bỏ sót chút nào khi làm bài kiểm tra. Không chỉ cho chúng tôi những bài học lịch sử mà cô còn dậy cách đối nhân xử thế ở đời. Cô cho mỗi chúng tôi biết thế nào là cuộc sống thực tại, nó không màu hồng cũng không trải thảm đỏ mà mỗi trái tim non nớt chúng tôi vẫn hoài tưởng. Cô vẫn ví, cuộc đời như một cuộc chiến đấu chính bản thân mình vậy. Nếu kiên cường thì họ sẽ không bao giờ gục ngã, nhưng chỉ cần sơ xảy họ có thể đánh đổi cả cuộc đời. Tôi mơ hồ hiểu những gì cô nói, nhưng đến giờ thì đó lại là bài học đáng giá theo mãi cuộc đời tôi. Mỗi một năm trôi qua cô đón một thế hệ học trò tìm đến những điều mới mẻ trong trang sách lịch sử. Nhưng cũng là lúc cô tiễn thế hệ học trò của mình đi. 40 năm như vậy, sau 27 năm mà “tay lái” của cô vẫn vững mái chèo. Cô không còn đạp xe đến lớp như ngày xưa nữa, cô không còn giảng bài khi lớp ngập mưa, nhưng những tiếng giảng của cô vẫn trong trẻo và dịu hiền. Nó vẫn hàng ngày dẫn dắt những thế hệ học trò như chúng tôi tìm đến được những chân trời mới. Cô trang bị cho mỗi chúng tôi đầy đủ hành trang tri thức và vốn sống của cô để chúng tôi không còn lạ lẫm và bỡ ngỡ khi bước chân vào đời. Những đồng nghiệp của cô vẫn nghĩ sao cô tận tâm với học trò đến vậy. Cô cười nhẹ và nói: “Nó đã theo cái nghiệp mất rồi, thiếu học sinh như thiếu chân tay vậy. Không sao chịu được”. Có lẽ nhờ cô mà những bài giảng lịch sử vẫn thấm nhuần trong tôi. Mỗi khi tiếp cận một sự kiện tôi không quên tìm kỹ về nguyên nhân của nó. Hiểu nghề để làm nghề như cô vẫn dặn chúng tôi. Sẽ mãi nhớ những kỷ niệm về cô, kỷ niệm về thời học trò và những bài giảng quý báu mà cô đã trao tặng cho mỗi chúng em. Chúng em sẽ luôn trân trọng nó như món quà quý giá nhất của cuộc đời. Người thầy năm xưa Tôi sinh ra ở làng quê nhỏ. Ngôi trường tiểu học của tôi cũng là trường làng bé lắm. Ngồi trường ấy ngày ngày chào đón các em học sinh nghèo tay lấm chân trần. Vâng, trường tôi nghèo lắm. Nhưng ở nơi đó tôi đã tìm thấy nhiều niềm vui và những kỉ niệm về người thầy thân thương với lòng biết ơn sâu sắc. Đã hơn 10 năm nhưng hình ảnh và lời nói của thầy vẫn luôn hằn sâu trong ký ức tôi. Đó là năm học lớp 5, tôi được chuyển sang học lớp mới. Ngày đầu đi học tôi đứng rụt rè ở cửa lớp vì e sợ thầy, bạn không quen. Thầy nhìn thấy tôi và hỏi han ân cần. Nhìn ánh mắt trìu mến và cầm bàn tay ấm áp của thầy, tôi bước vào lớp trong sự yên tâm lạ thường. Từ lần đầu được gặp thầy rồi được thầy dạy dỗ, tôi càng hiểu và thấy yêu quý thầy nhiều hơn. Với thầy, tôi có thể diễn tả bằng hai từ “yêu thương” và “tận tụy”. Thầy tận tụy trong từng bài giảng, từng giờ đến lớp. Cả những ngày nóng bức hay những ngày mưa, thầy đều đến lớp để mang cho chúng tôi nhiều điều mới lạ. Tôi nhớ đến mùa nước nổi, khắp đường xá, trường học đều đầy nước. Thế mà thầy trò chúng tôi vẫn đến lớp đều đặn, học bì bõm trong nước thế mà vui đến lạ. Những bài giảng của thầy dường như “đánh thắng” cả mùa nước lũ. Khi không đến lớp, thầy lặn lội đến nhà các học sinh để tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và tạo điều kiện tốt hơn để chúng tôi yên tâm ngày hai buổi đến trường. Thầy tôi là như thế, thầy tận tụy với nghề, yêu thương tất cả học sinh. Tôi đã từng được đến chơi nhà thầy – một ngôi nhà mái lá đơn sơ nhưng gọn gàng, sạch sẽ. Căn nhà bé nhỏ ấy chứa đựng tấm lòng yêu thương bao la của thầy tôi. Hơn cả 1 người thầy dạy chữ, thầy còn dạy chúng tôi biết bao điều trong cuộc sống. Thầy luôn nhắc nhở chúng tôi cố gắng học tập, không khuất phục cái nghèo. Thầy vẫn tin rằng các học trò của thầy sẽ xây dựng một tương lai tươi sáng hơn. Niềm tin của thầy truyền sang niềm tin của chúng tôi – những đứa học trò nghèo chan chứa bao nhiêu là ước mơ và hoài bão. Những lời dạy dỗ của thầy đã theo tôi trong suốt những tháng năm dài. Tuyen tap truyen ngan hay va xuc dong ve thay co ngay 20/11 Truyện ngắn cảm động về tri ân thầy cô 20-11 Riêng với tôi, tôi vẫn nhớ mãi những lần được thầy đưa đến trường. Con đường đá đến trường đã thấm biết bao giọt mồ hôi của thầy tôi. Tôi không sao quên được hình ảnh thầy với chiếc xe đạp cũ kĩ cứ kêu “kót két” theo từng vòng quay. Thế mà chỉ cần ngồi sau lưng thầy, con đường dài dường như ngắn lại; cái nóng của buổi trưa nắng gắt dường như cũng mát dịu hẳn đi. Nhìn lưng thầy ướt đẫm mồi hôi mà miệng vẫn vui cười. Ôi! Sao mà nhớ thầy đến thế! Trên con đường dài với lắm gập ghềnh, thầy và tôi cùng nhau trò chuyện nhiều điều thú vị. Bất chợt tôi cảm thấy thầy thật gần gũi và thân thiết như một người bạn lớn. Có lần thầy hỏi tôi rằng: “Nếu chỉ được đi qua một lần trên con đường đầy hoa dại, con sẽ chọn một bông hoa nào con cho là đẹp nhất?!”. Lúc bé thơ ấy tôi nào hiểu những gì thầy muốn nói, chỉ khẻ cười rồi im lặng. Rồi thầy bảo rằng “trên đường con đi sau này sẽ có nhiều “bông hoa” như thế. Con đừng đợi phải đi hết quãng đường, hãy nắm lấy cơ hội để con có thể tiến xa hơn”. Và khi đó tôi mới hiểu điều thầy muốn nói, lời nói của thầy đã cổ vũ tôi đủ can đảm bước xa làng quê bé nhỏ để lên thành phố học tốt hơn. Đúng là thầy tôi, lời khuyên nhủ thật nhẹ nhàng nhưng sâu sắc và làm người ta yên lòng lắm. Đến hôm nay, tôi bỗng nhớ lại những câu chuyện của người thầy năm xưa. Thầm cảm ơn thầy về những gì tốt đẹp thầy đã dành cho tôi. Đó là những lời dạy dỗ quý báu cổ vũ tôi trong những tháng năm dài. Gần 10 năm nay ít có dịp về thăm thầy cũ. Ngôi trường làng ngày xưa đã tàn phai ít nhiều. Mỗi lần về thăm lại thấy mái tóc thầy tôi bạc trắng nhiều hơn. Nhưng dù thời gian có trôi qua bao nhiêu, tấm lòng thầy vẫn như thế, vẫn tận tụy và đầy yêu thương. Đối với tôi, “người thầy năm xưa” là biểu tượng của một nhà giáo Việt Nam ưu tú. Ở thầy tôi là sự hy sinh cao cả xuất phát từ lòng yêu nghề, yêu trẻ. Đến hôm nay, trong lòng tôi vẫn mãi mãi kính trọng và biết ơn “người thầy giáo năm xưa”. Người mẹ thứ hai Tuổi thơ của tôi không được đủ đầy như bao đứa trẻ khác. Vừa sinh ra đã không được thấy mặt ông bà nội, ngoại. Lên sáu tuổi, mẹ tôi qua đời vì bạo bệnh. Nhà đông anh em, cha lại phải đi làm xa, năm anh chị em sống bao bọc lấy nhau, cùng bảo ban nhau trong cuộc sống. Khó khăn, thiếu thốn là vậy nhưng chị em tôi luôn là tấm gương điển hình dẫn đầu trong lớp và trong trường về thành tích học tập. Đó là nhờ công dạy bảo của cha, nhưng cũng là nhờ các thầy, cô giáo luôn tận tâm chỉ bảo. Với tôi, suốt cuộc đời này, dẫu có đi đâu về đâu, tôi cũng không bao giờ quên được cô Lịch – cô giáo chủ nhiệm lớp 3 của tôi hồi ấy – người mẹ hiền thứ hai đã chắp cánh ước mơ cho tôi ngay từ những ngày thơ ấu. nguoi-me-thu-hai Cô giáo như người mẹ thứ hai Từ quê nghèo chuyển lên thị trấn sinh sống, lại mồ côi mẹ, tôi thuộc vào hàng học sinh nghèo nhất lớp. Trong khi các bạn trong lớp quần nọ áo kia, cặp sách, giày dép đủ các loại đắt tiền thì tôi quanh năm chỉ có mỗi bộ đồng phục quần xanh áo trắng và thêm chiếc áo ấm đã cũ màu vào mùa đông. Nhưng bù lại, tôi là học sinh dẫn đầu trong lớp về tất cả các môn học. Vốn dạn dĩ, tôi không tự kiêu vì thành tích học tập của mình, nhưng luôn thấy mặc cảm và tự ti về hoàn cảnh gia đình. Tôi không chơi thân với ai, chỉ sống khép mình ở cuối góc lớp. Cô là giáo viên chủ nhiệm mới của lớp tôi, thay cho cô chủ nhiệm cũ vừa chuyển trường. Cô có gương mặt thật hiền, dáng người thon thả và giọng nói miền Bắc dễ thương đến lạ. - Chào các em, cô tên Lịch, là chủ nhiệm mới của các em từ bây giờ. Cô sẽ rất vui nếu các em xem cô là bạn, chia sẻ với cô mọi khó khăn trong học tập cũng như cuộc sống. Rồi cô đi từng bàn, hỏi thăm từng học sinh một. Tôi dõi mắt theo cô từ lúc cô mới bước vào lớp, bỗng thấy hồi hộp khi cô bước lại gần và hỏi thăm về gia đình tôi. Tôi trả lời cô, giọng lí nhí trong cổ họng với mặc cảm phận nghèo. Bỗng nhiên, cô xoa đầu tôi, mỉm cười: - Cô có xem qua học bạ của em. Em giỏi lắm, cố gắng phát huy nữa nhé. Có gì khó khăn cứ bảo với cô, đừng ngại. Cô nói và nhìn thẳng vào mắt tôi, mỉm cười. Nụ cười toát lên nét nhân hậu, thân thương và gần gũi. Ngay từ lúc đó, tôi thấy mình sẽ gắn bó với cô. Từ lúc cô Lịch về chủ nhiệm, lớp tôi “thay da đổi thịt” hẳn lên. Từ một lớp học lực chỉ đạt loại trung bình khá, dần vươn lên đứng đầu trong bảng xếp loại của trường. Những giờ học của cô khiến cả lớp cảm thấy rất hứng thú, chỉ mong thời gian trôi chậm lại. Cô không dạy cứng nhắc theo giáo trình, không phụ thuộc vào sách giáo khoa, vậy mà sự linh hoạt trong cách truyền đạt của cô khiến cả lớp háo hức như nuốt lấy từng lời giảng. Cô biết tường tận hoàn cảnh gia đình của từng đứa trong lớp. Đứa nào học kém, cô chủ động ghép nhóm học kèm để các bạn học khá kèm cặp cho các bạn học yếu… Phong trào học tập trong lớp sôi động hẳn lên. Ngay cả những học sinh cá biệt trong lớp cũng trở nên yêu thích và chăm chỉ học tập. Chỉ cần một hôm vắng bóng cô, chúng đã nhao nhao lên hỏi thăm và thế nào cuối giờ học cũng dẫn đầu các bạn trong lớp đến nhà thăm cô giáo ốm. Lớp tôi đã trở thành một tập thể rất đoàn kết và cô Lịch chính là “cô tiên” làm nên điều kỳ diệu đó. Kỳ thi vở sạch chữ đẹp của huyện năm đó, cô chọn tôi làm đại diện cho lớp và cũng là cho khối lớp 3 tham dự cuộc thi. Vốn không có tiền mua những cuốn vở đẹp nhưng nhờ chữ đẹp và trình bày sạch sẽ nên vở viết của tôi nhìn rất đẹp mắt. Chỉ có điều, tôi hơi ái ngại vì giấy báo bọc vở thì đã cũ, nên nhìn bên ngoài những cuốn vở có vẻ xấu xí. Cuối giờ học, cô gặp riêng tôi, nhỏ nhẹ bảo: “Chiều Hằng mang vở đến nhà cô nhé. Hai cô trò mình sẽ cùng “tu bổ” lại nó một tý”. Tới nhà cô, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhà cô ở cũng giản dị và chẳng lớn hơn nhà tôi là mấy. Chỉ khác là… nhà cô rất ít người. Hoá ra, vợ chồng cô không có con. “Cô chú hiếm muộn đường con cái nên quyết định sẽ ở vậy với nhau suốt đời” – cô cười buồn, nói như đọc được suy nghĩ của tôi. Cô ân cần bọc lại sách vở, thay nhãn vở mới cho tôi, chỉ cho tôi các trường hợp ra đề mà ban giám khảo có thể đề cập tới. Cô khuyên tôi nên nỗ lực học tập để sau này thi vào đại học. Cô bảo đó là con đường duy nhất sẽ giúp tôi thoát khỏi phận nghèo. Rồi cô hỏi tôi về hoàn cảnh gia đình… Biết tôi mồ côi mẹ từ bé, cô ngồi lặng đi một lúc, rồi… bất ngờ cô ôm tôi vào lòng: “Hãy xem cô như người mẹ của em, nếu em muốn”. Trong vòng tay của cô, tôi thấy mình trở nên bé bỏng, cảm giác gần gũi, thân thiết như chính mẹ ruột của mình. Có cái gì đó trỗi dậy trong lòng tôi… như tình mẫu tử thiêng liêng mà bấy lâu tôi thiếu vắng… Kỳ thi ấy, tôi không giành giải nhất. Cầm bằng khen giải nhì trên tay, tự dưng tôi ứa nước mắt. Tôi đã không làm tròn lời hứa với lòng mình, mang giải nhất về tặng cô… Suốt cả buổi học, tôi cúi gằm mặt… không dám ngước lên nhìn cô. Bỗng giật mình khi một bàn tay đặt nhẹ lên vai và giọng cô nhỏ nhẹ: “Thôi nào cô bé. Cô biết em đã cố gắng hết sức rồi mà.”. Tôi ngẩng đầu nhìn cô, mắt nhòe lệ nhưng chan chứa yêu thương… Cô Lịch chủ nhiện lớp tôi cho tới lúc bọn tôi thi hết cấp. Năm đó, lớp tôi là lớp duy nhất có học sinh thi vượt cấp đạt 100%. Buổi liên hoan chia tay thấm đẫm nước mắt. Cô và trò ôm nhau cùng khóc. Đứa nào cũng ước giá như thời gian dừng lại… lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa. Bây giờ, tôi đã lớn khôn, đã ra trường và có công việc ổn định nơi thành phố. Mỗi năm về quê ăn tết, tôi lại ghé vào thăm cô, mua tặng cô loài hoa hồng tiểu muội mà cô rất yêu thích. Cô giờ đã có tuổi, mái tóc đã “pha sương”, trên mặt đã điểm một vài nếp nhăn. Vợ chồng cô vẫn sống giản dị trong ngôi nhà nhỏ xinh thuở nào. Mười bốn năm đã trôi qua, vậy mà cô tôi vẫn giống như ngày xưa, dịu dàng và nhân hậu với đôi mắt rạng ngời… Dẫu đi hết cuộc đời này, tôi cũng không thể nào quên được đôi mắt ấy… Chút kỉ niệm về thầy * * * Cô nhỏ nhướn mày lên, nhìn xuống đồng hồ đeo tay, rồi dõi mắt ra ngoài cửa lớp. Nơi dãy hành lang dài đang im ắng, chờ đợi, lắng nghe tiếng giày gõ nhịp để thầm đoán: thầy hay cô ? Giờ Toán của lớp 9P1 hôm nay thay đổi giáo viên. Cô giáo cũ nghỉ hộ sản. Thầy giám thị thông báo sẽ có giáo viên mới đến thay. Mười lăm phút trôi qua nhanh chóng trong sự sốt ruột của học trò. Phía cuối lớp có ai nghịch ngợm ngân nga: “Mười lăm phút đồng hồ, buồn nhớ Toán thấy mồ, buồn như con cá rô… đang trôi… vào tô…” - Nghiêm! Giọng trưởng lớp vang to, khá oai (nhờ to con). Thầy giám thị xuất hiện. Một trăm con mắt học trò đen láy đổ dồn về phía cửa . Thấp thoáng phiá sau thầy là một bóng dáng lạ, chắc “ông” thầy Toán mới ?!!. Ô, nhưng sao mà… giống học trò quá đỗi!!! Thầy giám thị cười khá tươi: - Xin giới thiệu với các em, đây là thầy T. sẽ phụ trách môn Toán lớp 9 thay cho cô N… Một tràng pháo tay ngưỡng mộ (?) vang lên như mưa rào tháng sáu . Thầy T mĩm cười gật nhẹ đầu “chào các em thân mến!”. Ôi chao, hai má thầy sao mà đỏ như màu xác pháo, cặp kính cận suýt chút nữa rơi khỏi sóng mũi . Chắc vì cảm động trước “thịnh tình” của lũ học trò cỡ… hoa khôi đến hai phần ba lớp, dành cho! Trước khi trở về văn phòng, thầy Giám thị còn “ân cần dặn dò”. - Các em phải học cho ngoan. Nhớ là không được phá thầy! Ôi! Lời “đe nẹt” ấy không phải là không có duyên cớ. Bởi vì, con gái 9P1 có truyền thống mấy mùa tuy thông minh, học giỏi, đẹp người, tốt hạnh kiểm nhưng… chuyên nghịch ngợm cũng đứng vào hàng… quái chiêu! Thầy cô thương cũng lắm, mà dở khóc, dở cười cũng nhiều . Không biết trước khi vào lớp, thầy T. đã “nghiên cứu lý lịch” học trò chưa mà… ngó bộ thầy “bình tĩnh rồi … run” thấy rõ. Sau màn tự giới thiệu rất “dễ sương” – Sinh viên năm cuối Đại Học Khoa học tự nhiên (bằng cái giọng mà phong thái điệu đà như con gái). Thầy vui vẻ đòi … kiểm tra bài cũ. Năm mươi cái miệng than trời càng lúc vẫn không làm thay đổi được quyết định “sắt đá” của thầy . Thầy cầm quyển sổ điểm dò tên (sao thầy không chịu nhìn vào sơ đồ lớp nhỉ ?!) rất lâu, hai bàn tay run run (chắc do bị học trò “chiếu tướng” khá kỹ). Khi cây viết đỏ hạ xuống gần giữa sổ, một cái tên được xướng lên: - Trần Thị L.N. Cả lớp im phăng phắc theo từng bước đi “dịu dàng” của N., để rồi sau đó hai phút, bổng nổ ra 1 trận cười bom dội – N là một cô gái có dáng dấp “oai phong” của một vận động viên bóng rỗ. Cao 1m65, học trễ hai năm nên rất đáng mặt đàn chị so với cả lớp: Trong khi thầy T. ốm nhom, chiều cao chỉ khoảng 1m60 hay 1m62 gì đó (cộng luôn bề dày đế của đôi giày da mũi nhọn rộng quá khổ chân). Một sự tương phản khá hài hước. Thầy T điếng người, mặt đỏ như người say nắng biển, vội vã hỏi dăm ba câu lấy lệ rồi “mời” N về chổ. Quyển sổ điểm được gấp lại vội vàng và bài học mới bắt đầu cũng rất nhanh chóng… Tuyen tap truyen ngan hay va xuc dong ve thay co ngay 20/11 Thầy luôn ở bên dìu dắt dạy bảo học trò Cái sự khởi đầu nan ấy rồi cũng qua rồi mọi chuyện cũng biến thành kỷ niệm. Mà kỷ niệm lại bắt đầu từ sự nhiệt tình khá ngây ngô của cả thầy lẫn trò, lúc hai bên biết “hợp đồng tác chiến”. Còn nhớ 1 lần, thầy T có hứa sẽ dựng mô hình cho một bài toán hình học không gian khó nuốt, để học trò dễ hình dung hơn là nhìn vào hình vẽ. Vậy mà, hai lần, ba lượt thầy … cứ quên. Lúc thì… thầy bận… học (?!), lúc lại bận soạn bài cho môn dạy, lúc làm xong rồi nhưng… để quên ở… Sài Gòn ?!!! Lần cuối cùng, thầy nhớ đem theo, mà xe đò đông quá, thiên hạ chen nhau làm hỏng mất mô hình của thầy ?!! Học trò đâu chịu tin! Học trò đòi thầy dựng mô hình ngay tại lớp. Thầy bối rối “huy động” thước kẻ với số lượng tối đa, “chấm” các em bé bỏng ở hai dãy bàn đầu (trong đó có cô nhỏ dễ thương) lên giúp thầy … dựng mô hình (?). Trời đất! Năm bảy mái tóc thề, hơn một chục bàn tay nho nhỏ, cộng thêm thầy đứng vây quanh chiếc bàn giáo sư thì… còn ai nhìn thấy được gì! Vậy là… thầy cho học trò xếp hàng một, theo từng dãy bàn có trong lớp, từ từ tiến về phía “mô hình sinh động” tham gia theo kiểu “cưỡi trực thăng… xem hoa”. Vậy mà vui ghê gớm, vậy mà rất hoà bình. Cả thầy lẫn trò không ai thấy được nét ngây ngô, khờ khạo trong hành động của mình, mà còn xem như đó là 1 “kỳ tích” của thứ chỉ số IQ thuộc vào loại thông minh ?!! Rồi cũng có lần, thầy nổi giận hét to như … “Trương Phi” chỉ vì chút nghịch ngợm đi quá đà của lũ học trò thơ dại . Khiến học trò rơm rớm nước mắt tủi hờn. Còn thầy bất chợt dịu xuống như … giọt nắng cuối thu để hỏi một câu thật dễ “Ký kết hiệp ước hoà bình”: - Ôi, sao bỗng dưng các em ngoan quá vậy ? * * * Vâng, thầy T. là vậy đó – người không biết giận lâu, người rất dễ quên hờn, dễ nhập cuộc với áo trắng ngu ngơ . Thầy như một chiếc lá, tình vờ rơi xuống mặt nước hồ đang dao động của tuổi học trò, góp thêm một con sóng giao thoa nhỏ bé, rồi lại theo gió bay đi … Thầy dạy chưa hay . Học trò biết vậy, nhưng học trò không chê, mà mặc nhiên chấp nhận như một thứ kỷ niệm, xếp bên cạnh những tầng lớp kỷ niệm phải có trong tuổi ngây thơ . Bởi thầy T. rất hẳn nhiệt tình (dẫu thầy càng nhiệt tình giảng giải, học trò càng… nhiệt tình ngơ ngác!). Bởi đối với thầy T., tất cả những gương mặt trong sáng ngồi bên dãy bàn học bằng gỗ dưới kia, đều được thầy xếp đồng đẳng bằng một cái “mác” học trò đơn giản. Chúng như một quần thể tập hợp từ những cá thể lạ lẫm mà thầy đang có nhu cầu khám phá và ghi nhớ. Nhu cầu hòa nhập để vô tư yêu mến, bỏ qua những cái mà thiên hạ âu yếm gọi là danh vị, tiền tài của mẹ cha chúng bên ngoài xã hội … Nếu có ai bảo học trò 9P1 ngày ấy – Hãy chọn ra một nhân vật kỳ lạ nhất trường. Cô nhỏ năm xưa tin cha*’c, cả lớp sẽ đồng lòng bỏ phiếu cho thầy – Thầy T. * * * Ai bảo học trò ngày xưa khác với ngày nay ? Đâu có, khá giống nhau đấy chứ (khi nhìn theo một khía cạnh muốn nhìn!). Họ cũng thích cóp nhặt kỷ niệm, hình thành từ những mãnh pha lê rơi rớt (dẫu không tròn trịa) trong suốt khoảng đời còn làm… “Cái thứ ba … danh tiếng....

Thứ Năm, 9 tháng 3, 2017

Kỉ Niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11


Em tự hào khi là học trò của các thầy, các cô "Trong mỗi đời người, có biết bao người thầy, người cô đã dạy ta: dạy ở trên lớp, dạy ở ngoài xã hội... Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy, tạc dạ ghi nhớ mới là đạo lí. "Lời chúc sẽ chỉ vẫn là chúc nơi cửa miệng, trong tấm thiệp còn tươi màu mực. Duy chỉ tấm lòng sẽ mãi vẹn tinh khôi. Em xin gửi đến những lời chúc tốt đẹp nhất tới tất cả những người thầy, người cô đã dạy em suốt quãng thời gian cắp sách đến trường. Và cả những nhà giáo Việt Nam, người dẫn đường cho lớp trẻ dựng xây Tổ quốc một ngày 20/11 đầy ý nghĩa. Chúng em, thế hệ trẻ Việt Nam, rất tự hào khi là học trò của các thầy, các cô". (Á khôi báo chí Nguyễn Trà My). Không có thày cô, không có con ngày hôm nay "Con còn nhớ những hôm thầy cô cố gắng giảng cho chúng con cách giải hay của một bài toán khó, cách bình những câu văn thơ hay làm sao có thể hiểu làm được những câu trắc nghiệm tiếng Pháp một cách nhanh nhất,… dù đã quá giờ tan lớp từ lâu. Con biết rằng thầy cô dù mệt nhưng vẫn vô cùng nhiệt huyết với sứ mệnh “người lái đò”. Thời gian thắm thoắt thoi đưa, con, cô học trò nghịch ngợm, bướng bỉnh ngày nào của thầy cô giờ đã là du học sinh năm 2. Nếu không có những bài học, những lời khuyên răn và những lời chỉ bảo tận tình của thầy cô sẽ không có con ngày hôm nay và con biết ơn thầy cô vì điều đó. Với con, thầy cô như những người cha, người mẹ hiền và ở một nơi xa, con xin được gửi đến thầy cô những tình cảm yêu thương, những lời chúc đẹp nhất nhân ngày 20/11, ngày kỷ niệm nhà giáo đầy thiêng liêng và cao cả". (Thảo My - Du học sinh ở Pháp). Con yêu Cô giáo Mẹ nhất! "20/11 mọi năm dù bận kiểu gì, dù là đầu tuần, giữa tuần, hay cuối tuần đều cố gắng về với cô giáo MẸ, về để được bóc quà, được ngắm hoa và được đi ăn ké cùng với mẹ. Năm nay bị lỡ hẹn với Cô giáo Mẹ rồi. Cô giáo Mẹ mấy hôm trước phải giảm cân tích cực để mặc vừa áo dài nhưng kết quả chưa được thành công mĩ mãn lắm vì bị con gái về phá đám. Nhưng Mẹ à, Mẹ đừng lo, Mẹ mặc gì cũng đẹp. Mẹ là Cô giáo khó tính nhất nhưng lại giỏi nhất, đẹp nhất, đáng yêu nhất trong cuộc đời con. Con yêu Mẹ!". (Facebook Hương Trang). Thầy đã cho em niềm tin và sức mạnh "Thầy là người đã cho em niềm tin và sức mạnh để em có được những thứ như ngày hôm nay. Thầy đã cho em hiểu, em phải cố gắng và cố gắng hơn nữa để có một tương lai tốt đẹp. Thầy cũng nhắc em không nên đánh mất mình, phải luôn là chính mình trong mọi hoàn cảnh. Dù chưa một lần nói với thầy lời cảm ơn, nhưng trong lòng em, em rất biết ơn thầy. Dù có ở đâu, có làm gì, có như thế nào, em vẫn sẽ luôn nhớ về thầy, luôn nhớ những lời thầy đã nói, những điều mà thầy đã làm cho em. Cảm ơn vì thầy đã không chỉ là một người thầy, mà còn là một người anh, một người bạn của em. Em cảm ơn thầy!". (Facebook Chimmy Ngoc) Trò vẫn luôn hướng về mái trường thân yêu "Chúc mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11. Học trò cũ kính chúc các thầy, các cô luôn vui khoẻ, hạnh phúc, và chúc cho mọi lời chúc của tất cả học trò dành cho các thầy các cô đều trở thành hiện thực . Xin các thầy, các cô hãy cứ tin rằng, dù là 10 năm, 20 năm... hay bao nhiêu năm trôi qua đi chăng nữa, học trò vẫn luôn nhớ về mái trường thân yêu, nhớ những bàn tay đã dìu dắt trò những bước đi đầu tiên của cuộc sống tự lập. Trò vẫn luôn hướng về một nơi, một mái ấm gia đình thân yêu nhất và trong mỗi bài giảng của thầy cô dành cho học sinh, sinh viên, trò vẫn nhớ đến những người thầy cô của mình, nhớ về mái trường đã cho trò vững bước vào đời, với niềm tự hào, lòng biết ơn vô hạn. Ngày 20/11, em xin được dành những lời chúc, những bó hoa tươi thắm nhất của những của mình, và tất cả những lời chúc đó, đều là dành cho các thầy, các cô, em dược như ngày hôm nay đó là kết quả của các thầy các cô mang lại cho em" - See more at: http://giupban.com.vn/hoi-dap/nhung-cau-status-an-tuong-ngay-20-11-d46665.html#sthash.wLrUWrlq.dpuf

Trường THPT Tạ Uyên với phong trào an toàn trường học

Trường THPT Tạ Uyên với phong trào an toàn trường học Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, những năm qua, Trường THPT Tạ Uyên (thị trấn Yên Thịnh, Yên Mô) luôn thực hiện có hiệu quả công tác bảo đảm an ninh trật tự, an toàn trường học.Được biết, hàng năm, Ban Giám hiệu nhà trường đều thành lập Ban chỉ đạo an toàn trường học gồm đại diện Ban giám hiệu, Bí thư Đoàn, các tổ trưởng chuyên môn, Chủ tịch công đoàn, đại diện hội phụ huynh học sinh, đại diện học sinh để chỉ đạo thực phong trào an toàn trường học. Hàng năm, nhà trường phối kết hợp với Công an huyện, Công an thị trấn tổ chức tuyên truyền, quán triệt các văn bản, chỉ thị của cấp trên về công tác an ninh trật tự, an toàn trường học, phòng, chống HIV/AIDS, Luật Giao thông đường bộ đến toàn thể cán bộ, giáo viên và học sinh. Việc tổ chức cho các em học sinh giữa các khối, lớp ký cam kết đảm bảo các nội dung an toàn trong nhà trường theo nội dung của phong trào an toàn trường học được thực hiện nghiêm túc. Nhà trường phối hợp với Công an huyện Yên Mô, Công an thị trấn Yên Thịnh tổ chức xây dựng và thực hiện phong trào “Cổng trường an toàn về ANTT”. Ban Giám hiệu nhà trường thường xuyên trao đổi thông tin về tình hình ANTT với các đồng chí Bí thư chi bộ, Tổ trưởng tổ dân phố, Công an xã, bảo vệ dân phố khu vực giáp ranh với trường để kịp thời phát hiện các sơ hở, thiếu sót trong công tác đảm bảo ANTT. Nhà trường đã làm tốt việc phối hợp với Công an huyện, các bậc phụ huynh học sinh tổ chức các buổi họp phụ huynh theo chuyên đề bàn việc phối hợp thực hiện công tác quản lý, giáo dục học sinh. Đối với những em học sinh có biểu hiện lười học, có quan hệ phức tạp với các thanh, thiếu niên hư, đã từng vi phạm pháp luật, nhà trường cùng gia đình các em thường xuyên giáo dục và giao cho đoàn thanh niên nhà trường và phân công cho các thầy, cô trực tiếp giáo dục, quản lý. Ngoài ra, nhà trường còn thành lập các tổ, nhóm, câu lạc bộ phòng, chống tệ nạn xã hội, thường xuyên nắm bắt thông tin, tình hình, diễn biến tư tưởng của học sinh và thực hiện tốt việc giám sát các học sinh cá biệt nhằm phát hiện kịp thời các hành vi, biểu hiện sai phạm để có kế hoạch quản lý, giúp đỡ các em tiến bộ. Nhà trường còn chú trọng giáo dục lý tưởng, nhân cách sống cho học sinh bằng việc lồng ghép trong các buổi hoạt động ngoại khóa hoặc tích hợp vào các môn học. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về ATGT, kiến thức PCCC, chống đuối nước; tổ chức nói chuyện chuyên đề về bạo lực học đường cho học sinh. Tổ chức các hoạt động bổ ích lành mạnh lôi cuốn học sinh tham gia như: Diễn đàn “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ trường THPT Tạ Uyên” diễn đàn “Tuổi trẻ sống đẹp, sống có ích”, “Học tập vì ngày mai lập nghiệp” và tổ chức các sân chơi lành mạnh giúp học sinh tránh xa tai, tệ nạn xã hội. Để làm tốt phong trào an toàn trường học, Trường THPT Tạ Uyên còn tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm, làm nòng cốt ở từng lớp trong thực hiện an toàn trường học. Các học sinh trong lớp đều được giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu, nắm rõ hoàn cảnh, điều kiện sống để có phương pháp quản lý, giáo dục phù hợp; phối hợp chặt chẽ với gia đình, thông qua cán sự lớp và bạn bè để quản lý thời gian đi, về của học sinh, kiểm soát tình hình thực hiện nền nếp học tập của học sinh. Đối với các em học sinh cá biệt, giáo viên chủ nhiệm luôn quan tâm, gần gũi và lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của các em để tư vấn tâm lý, chia sẻ và giáo dục, giúp các em nhận thức tốt và ứng xử đúng trước các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Từ việc đẩy mạnh thực hiện phong trào an toàn trường học, những năm gần đây, tình hình an ninh trật tự ở Trường THPT Tạ Uyên được giữ vững; chất lượng dạy và học được nâng cao. Nhiều năm liền, nhà trường không có cán bộ, giáo viên và học sinh vi phạm pháp luật, mắc các tệ nạn xã hội, không xảy ra hiện tượng trộm cắp tài sản. Học sinh không vi phạm các quy định về an ninh trật tự, TTATGT, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, thực hiện nghiêm túc nền nếp, quy định của nhà trường, của ngành và địa phương.

Trường THPT Tạ Uyên tổ chức diễn đàn "Thanh niên lập thân, lập nghiệp"

Trường THPT Tạ Uyên tổ chức diễn đàn "Thanh niên lập thân, lập nghiệp" Thực hiện Chỉ thị số 03-CT / TW of Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập and làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chiều 27/3/2014, Huyện đoàn Yên Mô chỉ đạo đoàn Trường THPT Tạ Uyên tổ chức diễn đàn thanh niên học tập and làm theo lời Bác as chủ đề "Thanh niên lập thân, lập nghiệp". Dự diễn đàn have đồng chí Bùi Thành Đông, TUV, Bí thư Huyện ủy, lãnh đạo Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Sở Công thương, Đoàn trường Đại học Hoa Lư, Thường trực Huyện đoàn, Bí thư đoàn all xã, thị trấn, the chi đoàn trực thuộc, the thầy, cô giáo and 750 đoàn viên thanh niên Trường THPT Tạ Uyên. Các đại biểu tham dự diễn đàn Tiết mục giao lưu as khách mời tại diễn đàn Diễn đàn been tổ chức nhảm tuyên truyền thực hiện Chỉ thị số 03 / CT / TW of Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập and làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh as chủ đề "thanh niên lập thân lập nghiệp". Tham gia diễn đàn, the đoàn viên, thanh niên been giao lưu, đối thoại with vị khách mời, the thầy cô giáo, học sinh giỏi tiêu biểu of nhà trường, tham gia biểu diễn all tiết mục văn nghệ, the tiểu phẩm đặc sắc mentioned nội phân lập thân lập nghiệp of thanh niên hiện nay. Qua that, nâng cao nhận thức of thanh niên ngày nay as việc lập thân lập nghiệp; giáo dục phẩm chất đạo đức lối sống; giúp thanh niên nhà trường have been định hướng về nghề nghiệp, lựa chọn nghề phù combined with bản thân, under the terms of gia đình and nhu cầu xã hội; khơi dậy those ước mơ, hoài bão, lý tưởng trong sáng to các bạn đoàn viên thanh niên may thêm động lực nói mê học tập, biến ước mơ trở thành hiện thực. Cũng tại diễn đàn, đại diện Sở Công thương tỉnh trao tặng 200 chiếc máy tính cầm tay, 6 cặp sách cho học sinh trường PTTH Tạ Uyên. /.

Đồng Chí Tạ Uyên Danh Nhân Văn Hóa Portal

https://www.youtube.com/watch?v=0UvWdeQ4x_M Đồng chí Tạ Uyên (1898 - 1940) Đồng chí Tạ Uyên (tức Châu Xương), sinh ngày mồng 5 tháng 8 năm 1989, tại làng Côi Trì, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Đồng chí là con cụ Tạ Hoạt và cụ Lê Thị Huynh. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân tương đối khá, đồng chí được đi học và đỗ khóa sinh năm 18 tuổi. Để khỏi bị bọn chức dịch trong làng áp bức, khinh bỉ, gia đình đã "chạy" cho đồng chí cái "chân phó lý". Nhưng, chức phó lý cũng chỉ là tay sai cho bọn chánh tổng, lý trưởng..., vẫn bị chèn ép và ít khi được ra khỏi lũy tre xanh nơi thôn xóm. Chán ghét cái phận lúc nào cũng phải cúi đầu, khoanh tay, ra thưa, vào bẩm bọn quan trên và bọn đàn anh trong làng, trong tổng, đồng chí đã bỏ chức phó lý, đi học đạc điền. Cuối khóa, trúng tuyển, đồng chí được cấp bằng thư ký đạc điền. Với chức trách này, đồng chí có điều kiện đi đây, đi đó để xem xét, đo đạc ruộng đất, làm công việc địa bạ trong toàn huyện... Năm 1925, Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội được thành lập và phát triển mạnh mẽ trong cả nước. Kỳ bộ Bắc Kỳ đã cử cán bộ về gây cơ sở ở Ninh Bình. Cuối mùa thu năm 1927, tại Quỳnh Lưu (Nho Quan) tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội đầu tiên đã ra đời. Từ khởi điểm cách mạng Quỳnh Lưu, tổ chức cách mạng này tiếp tục phát triển sang Yên Mô, Gia Viễn, Gia Khánh. Hồi ấy, có mấy anh em thanh niên yêu nước của Ninh Bình học tại Nam Định đã được giác ngộ và kết nạp vào Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Do quen biết từ trước, thấy đồng chí Tạ Uyên có tâm hồn yêu nước, tính tình phóng khoáng, khảng khái, yêu quý tự do, các đồng chí đã giới thiệu đồng chí Tạ Uyên với tổ chức. Được hiểu biết về chủ nghĩa Mác-Lênin, về đường lối cách mạng của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, như con chim đang muốn xổ lồng, tung bay trong bầu trời cao rộng, đồng chí vô cùng sung sướng, gia nhập tổ chức cách mạng này. Được ánh sáng cách mạng soi đường, sẵn bầu nhiệt huyết sôi nổi của tuổi trẻ, đồng chí say mê hoạt động, không nề hà mọi nguy hiểm gian nan, ngày đêm đi tuyên truyền, giác ngộ những anh em có lòng yêu nước và đưa họ vào tổ chức. Tháng 10 năm 1927, chi bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội Yên Mô đã ra đời tại làng Côi Trì (nay thuộc xã Yên Mỹ), đồng chí Tạ Uyên được cử làm bí thư. Tuy hoạt động phải hết sức bí mật, nhưng chức "thư ký đạc điền" đã giúp đồng chí có điều kiện thuận lợi đi lại nhiều nơi trong huyện, trong tỉnh để vận động cách mạng. Theo chủ trương của chi bộ, đồng chí đã chon Bích Động (nay thuộc xã Ninh Hải, huyện Gia Khánh. Trước kia, xã Ninh Hải thuộc địa phận tổng Lận Khê, huyện Yên Mô) làm một trong những địa điểm in truyền đơn của Đảng. Bích Động là một nơi kín đáo, hẻo lánh, nui đá trùng điệp, đường đi lại khó khăn, nếu bị lộ, có nhiều đường thoát. Nhân dân Đam Khê Trong (gần Bích Động) giàu lòng yêu nước, hết sức giữ gìn, che chở, bảo vệ cán bộ cách mạng. Từ "xưởng in" Bích Động và các nơi khác, truyền đơn, thơ ca cách mạng đã xuất hiện nhiều lần như: cây đa đầu làng Mai Thôn, Chợ Ghềnh, ngã ba đường đi Thanh Hóa - Nho Quan - Ninh Bình (Yên Bình), Quảng Từ, Quảng Phúc, Nộn Khê (Yên Từ), Cầu Hội, Cổ Lâm (Yên Thái), Núi Bảng, Chợ Mo, Cầu Bút (Yên Mạc), chợ Kênh, chùa Hang (Yên Thành)... Hoạt động ở đâu, đồng chí Tạ Uyên cũng khơi sâu trong lòng người nỗi khổ cực của người dân mất nước, khêu gợi lòng yêu nước và kêu gọi quần chúng đoàn kết đấu tranh bằng những vần thơ: "... Tình dân khốn khổ trăm bề, Thân giun, phận dê, dám hề thở than! Dân nghèo, chẳng kẻ hỏi han Dân cùng, chẳng kẻ tính bàn làm sao! Nỗi niềm tưởng đến mà đau!..." Qua thơ ca, đồng chí kêu gọi mọi người đoàn kết đấu tranh, bền chí tin tưởng ở thắng lợi: "... Dây thân ái buộc tình đoàn thể, Bền lá gan lấp bể vá trời". Hay: "... Gan cho vững, dạ cho bền, Góp người, góp của thì nên đó mà. Nên chăng cũng bởi tạ ta, Gan vàng, dạ sắt đúc ra chữ đồng." Những vần thơ nói trên đã tác dụng giáo dục tinh thần yêu nước cho dân. Đến nay, một số người vẫn còn nhớ những bài thơ đó. Những hoạt động cách mạng của đồng chí Tạ Uyên trong những năm đầu đã có ảnh hưởng không nhỏ đến phong trào cách mạng của nhân dân Yên Mô. Đến nay, hình ảnh và những hoạt động của đồng chí còn in sâu trong tâm trí một số cán bộ và nhân dân Yên Mô. Năm 1929, phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển mạnh. Để tuyên truyền ảnh hưởng của Đảng và chào mừng cách mạng thắng Mười Nga, Đảng bộ tỉnh quyết định mở đợt tuyên truyền mạnh mẽ: cắm cờ Búa Liềm trên núi Thúy, rải truyền đơn, dán áp phích ở thị xã Ninh Bình, ở các thị trấn và nhiều nơi khác trong tỉnh. Sau đợt này, bọn địch điên cuồng, lùng sục, bắt bớ ở nhiều nơi. Một số cơ sở bị lộ, một số đảng viên và quần chúng yêu nước bị bắt. Sau nhiều lần rình mò, theo dõi, ngày 19 tháng 11 năm 1929, địch đã bắt đồng chí Tạ Uyên đang trên đường đi công tác rồi đưa về nhà lao Ninh Bình. Bắt được đồng chí, địch lại kéo về làng Côi Trì, đe dọa, khám xét nhiều nhà rồi chặt tre, cướp gỗ, phá nhà, cướp của, bắt bố và ba em đồng chí. Dù bị giam giữ trong nhà lao, để động viên gia đình giữ vững tinh thần, đồng chí đã tìm cách gửi thư cho cha: "... Thân con vì non sông mà báo oản trả thù, dù có đắng cay chìm nổi thế nào, con cũng sẵn sàng chịu đựng, xin cha cứ an lòng". Đồng chí cũng bí mật gửi thư cho cơ sở: "... Phong trào đang sôi nổi lắm. Cách mạng nhất định thắng lợi. Xin ông hãy bỏ lòng nhát sợ mà cần hy sinh tranh đấu, đừng thấy chúng tôi bị bắt mà chán nản. Ông hãy hết lòng làm việc và giữ thật kín công việc...". Trong nhà lao Ninh Bình, địch đánh đập, tra tấn nhưng vẫn không moi thêm được gì về bí mật cách mạng. Nhằm khủng bố những người cộng sản và phong trào quần chúng, ngày 24 tháng 1 năm 1930, địch mở phiên tòa xử "vụ án cộng sản đầu tiên" ở Ninh Bình, trong đó có đồng chí Tạ Uyên. Trước tòa án, những người cộng sản hiên ngang bất khuất vạch tội ác kẻ thù và kêu gọi quần chúng đấu tranh. Hoảng sợ trước khí tiết cách mạng của những người cộng sản, địch đã vội vàng kết án các đồng chí. Đồng chí Tạ Uyên bị 15 năm tù khổ sai, đầy đi biệt xứ. Tháng 6 năm 1930, địch đưa đồng chí Tạ Uyên cùng một số đồng chí khác đầy đi Côn Đảo. Một đồng chí cùng ở tù với đồng chí Tạ Uyên kể lại: "... - Ra Côn Đảo, tôi được biết anh Uyên. Lúc đầu, anh Uyên, tôi và mấy anh em khác bị giam ở "banh2". Anh Uyên đã cắn ngón tay lấy máu viết lên tường hầm giam bốn chữ "Thủy chung như nhất". Sau một thời gian ở tù cấm cố, chúng tôi ra lao động khổ sai. Biết lao động khổ sai thì cực lắm nhưng chúng tôi được ra ngoài, được thở hít không khí ngoài trời, ngay việc vệ sinh cũng sướng. Thích nhất là chúng tôi được gặp gỡ nhau, hiểu biết nhau. Nhưng anh Uyên và chúng tôi phải xa nhau. Tôi đi làm ở sở ống, anh Uyên đi làm ở sở củi hay còn gọi là sở chuồng bò. Lao động ở sở củi vất vả vô cùng. Hằng ngày, người tù phải đi chăn bò, đốn củi, đốt than mang về. Số củi, số than phải đúng như nó qui định; thiếu, nó đánh dữ lắm. Đàn bò hàng chục con, ăn rất tản mạn trong rừng, chiều tối về thiếu một con, nó đánh người tù có khi chết ngay tại chỗ, sống thì nó phạt hầm tối hoặc hầm xay lúa..." Phải lao động khổ sai cực nhọc vô cùng, nhưng đồng chí Tạ Uyên vẫn một lòng tin tưởng và mong ngày bắt được liên lạc với Đảng. Đồng chí rất thương anh em tù, thường lấy lá rừng làm thuốc cứu chữa cho những người bị ốm đau, thương tật (khi lao động khổ sai, người tù bị gãy chân, gãy tay, vỡ đầu... do địch đánh đập hoặc bi ngã thường xảy ra luôn). Do gần gũi, yêu thương anh em tù nên đồng chí Tạ Uyên ngày càng rộng rãi. Khi bắt được liên lạc với Đảng, đồng chí vô cùng phấn khởi. Do hoạt động tích cực và gần gũi anh em, ại có năng lực chỉ đạo, có tín nhiêm nên đồng chí được cử vào ban chi ủy và là một trong những người lãnh đạo "Hội cứu tế nhà tù". Được giao nhiệm vụ, đồng chí lo lắng sao cho khỏi phụ lòng tin của Đảng, của quần chúng. Cùng với tổ chức, đồng chí đã góp ý bàn bạc cách củng cố tổ chức Đảng, cách đấu tranh trong nhà tù, chăm sóc anh em bị ốm đau, bị đánh đập, cách bảo vệ các đồng chí lãnh đạo... Đồng chí đã tích cực tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản cho anh em, kể cả những người tù ở tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, cơ sở Đảng có ở hầu hết các khám, các sở của nhà tù. Hoạt động của Đảng ngày càng chặt chẽ, thống nhất, các cuộc đấu tranh trong tù càng mạnh mẽ, đời sống của người tù dần dần được cải thiện hơn. Việc học tập chính trị, văn hóa được đẩy mạnh và có nề nếp. Là một trong những người rất ham học nên trong những năm ở tù (1930-1934), đồng chí đã được trang bị nhiều về lý luận cách mạng vô sản, về đường lối cách mạng của Đảng ta, được rèn luyện nhiều về phẩm chất đạo đức, ý chí gang thép của người chiến sĩ cộng sản. Năm 1935, đáp úng yêu cầu cung cấp cán bộ cho cách mạng trong nước, Đảo ủy tổ chức những cuộc vượt biển. Vượt biển lần này có các đồng chí: Tống Văn Trân, Nguyễn Hữu Tiến, Vũ Công Phụ, Tạ Uyên và một số anh em tù thường. Trong hồi ký của mình, một đồng chí cùng vượt biển lần này, đã ghi lại: ..."Vào một đêm trăng sáng cuối xuân, chín anh em chúng tôi được lệnh ra khơi. Chưa bao giờ chúng tôi suy nghĩ, xúc động nhiều như giờ phút này. Chúng tôi về sẽ thoát khỏi cái địa ngục trần gian Côn đảo này, nhưng còn bao anh em, đồng chí ở lại, tiếp tục chịu cuộc sống đọa đầy, tàn ác của bọn chúa đảo. Rồi đến ngày thắng lợi, ai mất, ai còn, nhiều anh em không cầm được nước mắt. Nhưng trước yêu cầu của Đảng, trước đòi hỏi của nhân dân, chúng tôi nén thương đau, lau nước mắt mà tạm biệt anh em đồng chí. Trời vừa tối, trăng đã lên, thuyền chúng tôi xuất phát. Buồm được kéo lên, gió Tây Bắc thổi vào buồm phần phật, thuyền chạy băng băng trên mặt biển. Chín anh em chúng tôi cứ dán mắt về Côn đảo. Thuyền cứ chạy, vầng trăng cứ ngả vè Tây, đám Côn đảo đã đen thầm cứ thấp dần xuống... Thuyền cách Côn đảo đã khá xa. Bấy giờ, chúng tôi bàn nhau nấu cơm an, lương khô phải để dành phòng khi có chuyện bất trắc. Cơm xong, lại có nước ngọt uống. Chúng tôi ngồi nói chuyện hoàn toàn tự do, sướng lắm. Chúng tôi cười to, nói lớn cho bõ những ngày nhịn nói, nhịn cười ở Côn đảo. Gió Tây bắc vẫn thổi mạnh, thuyền vẫn băng băng lướt sóng. Chúng tôi thay nhau kẻ thức, người ngủ. Chiều hôm ấy, bỗng trời đổi gió. Thấy thuyền quay, chúng tôi lo quá! Anh cầm lái vội kêu lên như reo" - Không có lo chi cả! Gió Đông Nam rồi! Hay lắm! Dân đi biển gọi gió này là gió "chướng". Nói rồi, anh buộn lại buồm. Anh là một tù thường, được giác ngộ, tên Sáu Lẻ, người Hà Tiên, quen nghề đi biển, anh em gọi đùa là "Tổng trưởng hải quân". Nhờ tay lái của Sáu Lẻ mà chúng tôi về được đất liền! Anh em đều mệt ngoài vì say sóng. Chúng tôi nấu cháo, người mệt nhiều thì ăn cháo, người còn khỏe hơn thì ăn lương khô, lúc đầu anh em cứ nhường nhau mãi. Ăn cơm, ăn cháo rồi, chúng tôi lại thay phiên nhau ngủ. Tảng sáng hôm ấy, Sáu Lẻ gọi giật: - Đến rồi, anh em hà! Chúng tôi dụi mắt, không tin. Sáu lẻ quả quyết: - Thiệt! Nhứt định đây rồi! Quả nhiên, từ xa có nhiều thuyền của đồng bào đánh cá. Chúng tôi reo lên: - Trông thấy dân rồi! Về với dân rồi! Xúc động vô cùng, nhiều người ứa nước mắt. Chột dạ, chúng tôi bảo nhau giữ bí mật. Là những người con đầu tiên vượt được biển, về đất liền, chúng tôi không thể bộc lộ hết được những vui mừng, xúc động của mình. Trước khi thuyền vào bờ, anh em vứt hết xuống biển những gì là dấu tích của người tù Côn đảo. Thuyền vào bờ. Để giữ bí mật, chúng tôi nói với đồng bào là, chúng tôi là người Hà Tiên, rồi phân tán theo sự phân công từ trước...". Nhận sự phân công của Đảng, đồng chí Tạ Uyên về hoạt động ở vùng Hậu Giang. Bắt được liên lạc với Đảng, đồng chí về Bạc Liêu. Anh em, đồng chí, đồng bào Bạc đã đón nhận đồng chí Tạ Uyên với tất cả tình cảm thân thiết như đón người con xa nhà lâu ngày. Do hăng hái hoạt động, có lòng trung thành với Đảng, với dân, lại có vóc người cao, to, đen nên đồng bào, đồng chí đặt tên thân cho đồng chí là "Châu Xương" (Châu Xương giữ ngựa xích thố cho Quan Vân Trường trong truyện Tam Quốc). Từ đó, Châu Xương gắn bó thân thiết với đồng chí, đồng bào Miền Nam. Về sống và hoạt động trong sự yêu thương trìu mến của đồng chí, đồng bào Bạc Liêu, đồng chí Tạ Uyên vô cùng sung sướng, tin tưởng. Đồng chí đã đi tuyên truyền gây cở sở ở nhiều tỉnh miền Hậu Giang. Biết nghề thuốc, quen nghề làm ruộng, ở đâu, đồng chí cũng giúp đỡ bà con cày cấy, làm thuốc, chữa bệnh và giác ngộ cho đồng bào, nên được nhân dân tin yêu, mến phục. Vốn có tác phong sâu sát nên dù đến nông thôn nay thành thị, đồng chs cũng nắm chắc tình hình, mau chóng gây được cơ sở. Khi hoạt động ở thị xã Cần Thơ, đông chí đã làm "cu li" cho một hãng buôn rượu để che mắt địch và có điều kiện đi lại nhiều nơi. Lúc hoạt động ở thị xã Vĩnh Long, đồng chí đã tuyên truyền gây cơ sở trong công nhân nhà máy cưa, nhà máy đèn... và giác ngộ cho cả tầng lớp thợ thủ công: thợ bạc, thợ mộc, thợ máy khâu, thợ cắt tóc... Đến nay, nhân dân còn nhớ những câu thơ vận động công nhân do đồng chí truyền bá: "... Vì đâu kiệt tủy tan xương, Tiền lương không đủ ngày thường tiêu pha? Lấy gì báo đáp mẹ cha? Lấy gì nuôi vợ cùng là đàn con? Phải chi vô lý lỡ làng, Què tay, gãy cẳng, thân tàn tật thân!..." Hay: "... Đứng lên đoàn kết đấu tranh. Kéo cờ cộng sản, xây thành tự do..." Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy, phong trào cách mạng đã lên mạnh ở nhiều tỉnh miền Nam. Để thống nhất chỉ đạo, Xứ ủy quyết định thành lập Liên tỉnh ủy Hậu Giang (gồm các tỉnh Cà Mâu, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Long Xuyên, Châu Đốc). Đồng chí Tạ Uyên được cử làm Bí thư Liên tỉnh ủy Hậu Giang. Cùng với các đồng chí khác, đồng chí Tạ Uyên đã góp sức đẩy phong trào miền Hậu Giang phát triển mạnh hơn trước. Lo sợ trước sự lớn mạnh cảu phong trào cách mạng, ngày đêm địch theo dòi, lùng sục bắt bớ. Một số cơ sở bị lộ, một số cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước bị bắt, trong đó có nhiều đồng chí trong Tỉnh ủy, Liên tỉnh ủy. Đồng chí Tạ Uyên cũng bị địch theo dõi, vây ráp nhiều lần. Nhưng do có nhiều kinh nghiệm hoạt động bí mật, có ý thức cảnh giác cao, nhất là được quần chúng hết lòng che chở, bảo vệ nên hoạt động của đồng chí ở Nam kỳ trong những năm 1935-1940 không hề bị gián đoạn. Thấy rõ vai trò quan trọng của cán bộ lãnh đạo đại phương nên hoạt động ở nơi nào, đồng chí cũng mở những lớp huấn luyện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đồng chí còn dịch cuốn "Du kích chiến tranh" làm tài liệu học tập. Những anh em được đồng chí góp phần đào tạo, bồi dưỡng, phần lớn đều trở thành những người hết lòng trung thành với Đảng, với dân; có đồng chí đã hy sinh anh dũng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc; có đồng chí hiện nay đang giữ những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng. Trung thành tuyệt đối với Đảng, tận tụy với mọi nhiệm vụ, có năng lực tổ chức và chỉ đạo, được đảng viên và quấn chúng tín nhiệm, đồng chí Tạ Uyên đã được tham gia Ban chấp hành Xứ ủy và đến năm 1940, được cử làm Bí thư Xứ ủy Nam kỳ. Năm 1939-1940, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và diễn ra ngày càng gay gắt. Nước Pháp bị Đức đánh thua nhiều trận, thuộc địa Đông Dương bị Nhật đe dọa. Để cứu nguy cho "nước mẹ" và giữ thuộc địa Đông Dương, thực dân Pháp đã bắt hàng chục vạn binh lính người Việt đi làm bia đỡ đạn. Xứ ủy Nam kỳ chủ trương đẩy thật mạnh công tác binh vận. Đồng chí Tạ Uyên được phân công phụ trách công tác này. Say sưa với nhiệm vụ, ngày đêm đồng chí lăn lôn trong phong trào binh vận, tuyên truyền, gây cơ sở, làm thơ ca, để giáo dục ý thức dân tộc và khích lệ tinh thần phản chiến trong anh em binh lính người Việt. Đồng chí đã gợi lên nỗi khổ nhục của đời lính thuộc địa đánh thuê, vạch rõ âm mưu sâu độc của kẻ thù, kêu gọi họ dùng súng giặc giết giặc, trở về với chính nghĩa, với nhân dân. Công tác binh vận đã có ảnh hưởng sâu rộng và trở thành phong trào quần chúng. Tinh thần phản chiến của binh lính người Việt lên cao. Ở Chợ Lớn, 3000 lính đã biểu tình chống đi mặt trận biên giới Lào - Thái Lan. Tại Sài Gòn, 2000 lính Việt bị tập trung đưa đi mặt trận đã đấu tranh với chỉ huy; lính Tây đến đàn áp, cuộc xô xát đã xảy ra. Trên đường Vĩnh Long đi Mỹ Tho, Mỹ Tho đi Sài Gòn, từng đoang xe cam-nhông bịt kín, từ trong cam-nhông vang lên khẩu hiệu: "Phản đối chiến tranh!" "Phản đối đi trận!", "Tự do dân chủ!"... Truyền đơn cách mạng được rải liên tục ở nhiều nơi. Trong phong trào sôi nổi, rầm rộ ấy, nhiều anh em binh lính đã giác ngộ; có người sau này đã trở thành đảng viên cộng sản. Phong trào cách mạng trong quần chúng lên cao, càng thúc đẩy phong trào binh vận tiến bộ mạnh mẽ và ngược lại, cùng với phong trào binh vận, phong trào quần chúng càng lên cao. Nhiều cuộc mít tinh được tổ chức giữa ban ngày, có đông đảo nhân dân tham gia. Các đồng chí Xứ ủy về từng cơ sở để vận động cách mạng. Một đồng chí hoạt động cùng thời gian với đồng chí Tạ Uyên đã ghi lại trong hồi ký của mình: "... Ngày ấy, cấp trên về lãnh đạo chúng tôi tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Trung Hòa, tại một cánh đồng lác tốt vượt đầu người, nước xâm xấp chân. Đúng ngày giờ đã hẹn, nhân dân lũ lượt kéo đến chỗ mít tinh. Bà con các ấp Càng Long, Trung Điền, Trung Ngãi, Trung Hòa, Mỹ Cẩm, Phú Tiên, An Dương... kéo đến rất đông. Khi đồng chí Châu Xương nói chuyện, tất cả im lặng lắng nghe. Đồng chí nói tình hình thế giới, tình hình trong nước, chủ trương của Đảng Cộng Sản Đông Dương, chủ trương của Xứ ủy... Nghe Châu Xương nói, có lúc chúng tôi sầu tủi muốn sa nước mắt, có lúc căm giận sục sôi, có lúc vui mừng hớn hở, vỗ tay hồi lâu. Rồi cuộc mít tinh giải tán, bà con lại ra về theo sự hướng dẫn của cán bộ và cứ xì xào bàn tán không dứt những lời nói của Châu Xương...". Tháng 7 năm 1940, Hội nghị mở rộng của Xứ ủy Nam kỳ được tổ chức tại xã Long Hưng (Mỹ Tho) để thông qua "Đề cương chuận bị khởi nghĩa" của Thường vụ xứ ủy. Sau đó, cán bộ Xứ ủy về các tỉnh chỉ đạo việc chuẩn bị khởi nghĩa. Đồng chí Tạ Uyên được phân công phụ trách công tác binh vận toàn Xứ và trực tiếp chỉ đạo các tỉnh miền Hậu Giang. Phấn khởi trước tình hình phát triển của phong trào, cũng như các đồng chí Xứ ủy, đồng chí Tạ Uyên về từng cơ sở, xuống từng chi bộ nắm tình hình và chỉ đạo trực tiếp. Một đồng chí chi ủy viên xã Phong Thới, đã kể: "... Đồng chí Châu Xương lại về họp với chi bộ chúng tôi. Nghe chúng tôi nói rõ tình hình phong trào xã Phong Thới và huyện Vũng Liêm, đồng chí Châu Xương khen tốt, rồi nói: - Bây giờ ta phải tiến lên nữa! Các đồng chí chuẩn bị gấp, chờ lệnh cướp chính quyền huyện Vũng Liêm! Nghe Châu Xương nói cướp chính quyền Vũng Liêm, chúng tôi hơi bàng hoàng nhưng rất mừng. Chúng tôi hỏi: - Chuẩn bị gì? Bao giờ thì cướp chính quyền? Châu Xương nói: - Trường đao, đoản đao, giáo mác, gậy gộc, có gì thì chuẩn bị thứ đó. Việc cướp chính quyền thì sắp rồi, các đồng chí chuẩn bị gấp, phải hết sức kín! Như lửa cháy được đổ thêm dầu, chúng tôi vô cùng vui sướng, chia nhau hối hả chuẩn bị những việc mà đồng chí Châu Xương đã dặn...". Cũng như ở Phong Thới, không khí chuẩn bị khởi nghĩa sôi nổi khẩn trương ở nhiều tỉnh miền Nam. Những ấp cơ sở cách mạng đều có lò rèn, ngày đêm rèn giáo, mác, kiếm, mũi lao, dao găm, làm tạc đạn. Đến tháng 11 năm 1940, không khí khởi nghĩa như lò than rừng rực, chỉ chờ ngày cháy bùng lên. Ngày 22 tháng 11 năm 1940, chỉ trước cuộc khởi nghĩa một hôm, đồng chí Tạ Uyên - Bí thư Xứ ủy - bị bắt tại Sài gòn. Bị địch đánh đập cực kỳ tàn ác, đồng chí vẫn trơ như đá, vững như đồng. Kiệt sức vì đòn thù, đồng chí đã hy sinh anh dũng tại khám lớn Sài Gòn ngày 10 tháng 12 năm 1940. Nhưng, theo đúng kế hoạch của Xứ ủy, đêm 22 rạng ngày 23 tháng 11 năm 1940, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ đã bùng nổ. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, một trang sử oanh liệt của Đảng, của dân tộc ta, đã được viết lên bằng máu của biết bao đồng chí, đồng bào miền Nam anh hùng, trong đó có đồng chí Tạ Uyên. Đảng bộ và nhân dân Nam kỳ, Đảng bộ và nhân dân Bạc Liêu cũng như Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình mãi mãi ghi nhớ những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của đồng chí Tạ Uyên.

Giới Thiệu Về Trường THPT Tạ Uyên

Trường THPT Tạ Uyên, tiền thân là trường THPT Bán công Tạ uyên, thành lập ngày 21 tháng 7 năm 2004. Năm đầu trường chỉ có 08 lớp 10 với 440 học sinh, đóng tại thôn Quảng Phúc xã Yên Phong, huyện Yên Mô. Trường mang tên đồng chí Tạ Uyên là người con ưu tú của quê hương Yên Mô, một chiến sỹ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo cách mạng thuộc thế hệ tiền bối của Đảng. Ông sinh ngày 05/8/1898 tại làng Côi Trì nay thuộc xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô. Theo cách mạng từ năm 1927, nhiều lần bị Thực dân Pháp bắt, tra tấn cực hình, bị kết án 15 năm tù đày ra Côn Đảo. Từng giữ các chức vụ quan trọng như: Bí thư Tỉnh Uỷ Vĩnh Long, bí thư tỉnh uỷ Hậu Giang và Bí thư xứ uỷ Nam Kỳ, một trong những lãnh đạo chủ chốt của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ lịch sử. Ông hy sinh ngày 10/12/1940 tại Sài Gòn trong nhà tù của Thực dân Pháp. Năm học 2005-2006 nhà trường có 18 lớp, do không đủ phòng học, 10 lớp phải đi học nhờ tại TTGDTX Yên Mô. Năm học 2006-2007 trường chuyển lên địa điểm mới tại thôn Cổ Đà, xã Yên Phú, huyện Yên Mô (là nơi trường đóng hiện nay), lúc ấy đã phát triển thành 28 lớp với 1400 học sinh, là một trong những trường có quy mô lớn của Tỉnh. Qua 5 năm hình thành và phát triển nhà trường không ngừng lớn mạnh cả về lượng và chất. Từ 8 lớp ban đầu đã có quy mô ổn định 24 lớp. Từ 4 phòng học cấp 4 cũ nát xuống cấp đã có khuôn viên rộng rãi thoáng mát với 12 phòng học cao tầng kiên cố, đủ tiện nghi. Các trang thiết bị được tăng cường, từng bước hiện đại, cơ bản đáp ứng nhu cầu giảng dạy của thày, học tập của trò. Sau 3 khóa thi cuối cấp hơn 1000 học sinh được tốt nghiệp ra trường, nhiều em đã đỗ thẳng vào các trường Đại học, Cao đẳng. Là một trường mới thành lập lại hoạt động theo mô hình “Bán công”, rất nhiều khó khăn thách thức đến từ nhiều phía nhưng tập thể nhà trường luôn đoàn kết nhất trí, vững bước đi lên, chất lượng giáo dục toàn diện ngày một nâng cao khẳng định vị trí của mình trong hệ thống giáo dục tỉnh nhà, luôn được xếp vào tốp đầu trong khối các trường ngoài công lập. Năm năm qua nhà trường luôn được công nhận là tập thể lao động tiên tiến, Chi bộ Đảng trong sạch vững mạnh, các đoàn thể vững mạnh và vững mạnh xuất sắc. Có 15 giải học sinh giỏi cấp tỉnh (trong đó 1 giải Nhất, 2 giải Nhì), 38 huy chương các loại về thi văn nghệ, TDTT, 4 cờ thi đua của Sở GD-ĐT cùng nhiều bằng khen, giấy khen của Trung ương, Tỉnh, Huyện. Năm học 2009 – 2010 Nhà trường được chuyển đổi thành trường công lập mang tên “ Trường THPT Tạ Uyên”, đang được Nhà nước tích cực đầu tư từ cơ sở vật chất đến con người theo hướng hiện đại và chuẩn hoá. Hiện tại nhà trường có 22 lớp trong đó 8 lớp công lập; 56 cán bộ, giáo viên, 50% trong biên chế nhà nước. Từ năm học 2010 – 2011 nhà trường thực hiện tuyển sinh đầu vào theo phương thức thi tuyển như các trường công lập khác. Dù có nhiều khó khăn thách thức, 5 năm qua Trường THPT Bán công Tạ Uyên đã hoàn thành sứ mạng vẻ vang của mình, khẳng định vị trí, uy tín trong cán bộ, nhân dân địa phương, là địa chỉ đáng tin cậy của các em học sinh và các bậc phụ huynh trong huyện. Kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của trường THPT Bán công Tạ Uyên, Trường THPT Tạ Uyên hôm nay, với lợi thế và sức mạnh của một ngôi trường trẻ, nhất định sẽ vững bước đi lên viết tiếp trang sử hào hùng của Trường cấp 3 Tạ Uyên năm xưa, xứng đáng với lòng tin của cán bộ, nhân dân trong huyện và tên tuổi người chiến sỹ cộng sản Tạ Uyên bất khuất.

THPT Tạ Uyên 10 Năm Hình Thành Phát Triển

Trường THPT Tạ Uyên 10 năm xây dựng và trưởng thành Qua 10 năm xây dựng và phát triển, Trường THPT Tạ Uyên không ngừng lớn mạnh cả về lượng và chất. Hiện tại nhà trường có 20 lớp học với 716 học sinh; 55 cán bộ, giáo viên. 10 năm qua, với sự kiên trì, nỗ lực và sáng tạo của các thế hệ lãnh đạo, các thầy, cô giáo, nhân viên nhà trường và lớp lớp các thế hệ học sinh, Trường THPT Tạ Uyên đã đạt được những thành tích đáng trân trọng và rất đỗi tự hào. Cuối năm 1964, tại huyện Yên Mô, một ngôi trường cấp III được thành lập theo đề nghị của UBND tỉnh Ninh Bình và được Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định công nhận mang tên Trường cấp III Tạ Uyên. Đến tháng 7 năm 1971, do yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục toàn huyện, nhu cầu học tập ngày một lớn của học sinh, điều kiện đi lại của học sinh trong thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ còn diễn biến phức tạp, trường được chia tách thành 2 trường: Cấp III A và cấp III B Yên Mô. Tuy chỉ tồn tại trong 7 khóa học nhưng Trường cấp III Tạ Uyên đã làm tròn nhiệm vụ của mình, trở thành địa chỉ tin cậy cho các bậc phụ huynh và các em học sinh trên địa bàn thời đó. Tiếp nối truyền thống của Trường cấp III Tạ Uyên xưa, ngày 21 tháng 7 năm 2004 mái trường mang tên người con ưu tú của mảnh đất Yên Mô - Tạ Uyên được thành lập. Ban đầu là Trường THPT Bán công Tạ Uyên. Ngày đầu mới thành lập, nhà trường chỉ có 8 lớp 10 với 440 học sinh. Cơ sở vật chất của nhà trường gặp rất nhiều khó khăn, hầu hết là sử dụng các công trình phúc lợi của các đơn vị cũ. Đội ngũ giáo viên vừa thiếu vừa yếu, chỉ có 4 giáo viên, còn lại là hợp đồng. Năm học 2005-2006, nhà trường có 18 lớp, do không đủ phòng học, 10 lớp phải đi học nhờ tại Trung tâm GDTX Yên Mô. Năm học 2006-2007, trường chuyển lên địa điểm mới tại thôn Cổ Đà, xã Yên Phú, huyện Yên Mô (nay là thôn Cổ Đà, thị Trấn Yên Thịnh, huyện Yên Mô - địa điểm nhà trường hiện nay), lúc ấy Trường đã tăng lên 28 lớp với 1.400 học sinh, là một trong những trường có quy mô lớn của tỉnh. Năm học 2009 – 2010, nhà trường được chuyển đổi thành trường công lập mang tên “Trường THPT Tạ Uyên, được Nhà nước đầu tư cả về cơ sở vật chất đến đội ngũ giáo viên theo hướng hiện đại và chuẩn hoá. Qua 10 năm xây dựng và phát triển, Trường THPT Tạ Uyên không ngừng lớn mạnh cả về lượng và chất. Hiện tại nhà trường có 20 lớp học với 716 học sinh; 55 cán bộ, giáo viên. Từ 4 phòng học cấp 4 xuống cấp đã có khuôn viên rộng rãi, thoáng mát với 18 phòng học cao tầng. Các trang thiết bị được tăng cường, từng bước hiện đại, cơ bản đáp ứng nhu cầu giảng dạy của thầy và trò. Sau 7 khóa thi cuối cấp, hơn 2.000 học sinh được tốt nghiệp ra trường, nhiều em đã thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng. 10 năm qua, nhà trường luôn được công nhận là tập thể lao động tiên tiến, Chi bộ Đảng luôn đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh, các đoàn thể vững mạnh và vững mạnh xuất sắc. Có 9 giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, 1 giáo viên có sáng kiến kinh nghiệm cấp tỉnh; nhiều giáo viên nhiều năm liền đạt Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở. Có 45 giải học sinh giỏi cấp tỉnh, 58 huy chương các loại của các cuộc thi văn nghệ, TDTT, 8 cờ thi đua của Sở Giáo dục và Đào tạo cùng nhiều bằng khen, giấy khen của Trung ương, của tỉnh và huyện. Nhà trường thường xuyên tổ chức cho học sinh tham gia những sân chơi trí tuệ như: Rung chuông vàng; Trí tuệ học đường; Diễn đàn thanh niên làm theo lời Bác, sống đẹp, sống có ích; tổ chức ngày thơ Việt Nam; CLB nghệ thuật, CLB cầu lông… 10 năm qua, bên cạnh sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Sở Giáo dục và Đào tạo và các tầng lớp nhân dân, còn có sự nỗ lực vượt bậc, ý chí quyết tâm, tự lực tự cường của các thế hệ thầy và trò Trường THPT Tạ Uyên để Trường THPT Tạ Uyên có được dáng vóc như hôm nay. Từ mái trường này, hơn 4.000 học sinh của trường đã tung cánh khắp nơi, mang sức trẻ và nhiệt huyết của mình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Nhiều em đã trở thành bác sỹ, kỹ sư có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiều em là những người công nhân có tay nghề giỏi. Trong đó, không ít học sinh đã trở thành những thầy, cô giáo, tiếp tục sự nghiệp "trồng người" vẻ vang. 10 năm qua, nhà trường đã không ngừng phát triển và trưởng thành về mọi mặt, chất lượng giáo dục ngày được nâng lên; cơ sở vật chất, thiết bị giảng dạy ngày càng được đầu tư. Nhà trường đang dần khẳng định vị thế của mình trong sự nghiệp giáo dục của tỉnh nhà, đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước... Tuy nhiên, là một trường mới thành lập, xuất phát điểm là mô hình “bán công” nên còn rất nhiều khó khăn, thách thức. Trong thời gian tới, cần tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt”, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giữ vững mặt bằng chất lượng ngang bằng với các trường trong khối THPT của tỉnh. Đẩy mạnh công tác xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia. Giữ vững và nâng cao kết quả các kỳ thi học sinh giỏi; tỷ lệ đỗ tốt nghiệp THPT; hoàn thành tốt các lĩnh vực công tác theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 10 năm xây dựng và phát triển, với sự kiên trì, nỗ lực và sáng tạo của các thế hệ lãnh đạo, các thầy, cô giáo, nhân viên nhà trường và lớp lớp các thế hệ học sinh, Trường THPT Tạ Uyên đã đạt được những thành tích đáng trân trọng và rất đỗi tự hào. Đó là động lực vô cùng quý báu tiếp thêm niềm tin và sức mạnh để nhà trường tiếp tục vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao mới trong sự nghiệp trồng người, xứng đáng là địa chỉ tin cậy của các bậc phụ huynh và học sinh, góp phần vào sự nghiệp giáo dục nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước.